Thực đơn
Đàn Nam Giao (triều Nguyễn) Vị trí và kiến trúcĐàn Nam Giao triều Nguyễn được xây dựng ở xã Dương Xuân, về phía nam của kinh thành Huế, nay thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế, cách Kỳ đài 3km theo đường chim bay[1]. Cổng phía bắc của di tích là giao lộ của các trục đường Điện Biên Phủ, đường Phan Bội Châu, đường Lê Ngô Cát và đường Ngự Bình. Về phía đông, đàn Nam Giao giáp đường Tam Thai, phía tây giáp đường Minh Mạng.
Đàn Nam Giao triều Nguyễn được xây dựng trên khuôn viên hình chữ nhật có diện tích 103.350m² với chiều rộng (hai cạnh bắc nam) là 265m và chiều dài (hai cạnh đông tây) là 390m[1]. Bốn mặt khuôn viên đều trổ cửa theo bốn hướng đông, tây, nam, bắc trong đó cửa nam là cửa chính[2]. Trước mỗi cửa đều xây bình phong, mỗi bình phong rộng 12,5m, cao 3,2m, dày 0,8m, được xây bằng đá, nay chỉ còn ba bức ở các phía đông, nam, tây[1]. Bao bọc lấy khu đàn tế là một vòng tường xây bằng đá bazan, cao 1,6m[3] nhưng đã bị triệt phá từ lâu[1]. Trong lịch sử Việt Nam, đây là đàn tế Giao to lớn nhất[3].
Phía trong khuôn viên đàn là các công trình kiến trúc được nhà Nguyễn cho xây dựng để phục vụ đại lễ Nam Giao với trung tâm là đàn Nam Giao. Ngoài ra còn có Trai cung, Thần khố, Thần trù, Quan cư, Khoản tiếp cùng một số công trình phụ.
Đàn Nam Giao gồm 3 tầng bằng gạch xây chồng lên nhau, cao gần 4,7m, cấu tạo và kích thước của các tầng rất hài hòa và cân đối[3].
Có thể thấy kiến trúc đàn Nam Giao triều Nguyễn tuân thủ chặt chẽ theo thuyết Tam tài cũng như quan niệm "Trời tròn Đất vuông". Đàn Nam Giao gồm ba tầng xây chồng lên nhau với các dạng thức và màu sắc khác biệt. Trời tròn biểu hiện bằng Viên đàn với lan can quét vôi màu xanh ("thiên thanh": trời xanh). Đất vuông biểu hiện bằng Phương đàn với lan can quét vôi màu vàng ("địa hoàng": đất vàng). Tầng dưới cùng cũng hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ biểu hiện cho Người ("xích tử": con đỏ)[1]. Trời - Đất - Người (tức "Tam tài": Thiên - Địa - Nhân) được thể hiện trong mối quan hệ vừa có tính tách biệt tương đối, vừa thống nhất tuyệt đối. Đặc biệt, yếu tố Con người được thể hiện rất rõ ràng và khá bình đẳng với tất cả Trời Đất và các vị thần linh. Nhà nghiên cứu Phan Thanh Hải cho rằng "đây chính là đỉnh cao tư tưởng THÁI HÒA của Việt Nam dưới thời Nguyễn".[3]
Trai cung là tổng thể kiến trúc khép kín nằm ở góc tây nam của khuôn viên đàn Nam Giao triều Nguyễn, được bố trí theo thế "tọa bắc hướng nam", gồm chính điện, nhà Tả túc, Hữu túc, phòng Thượng trà, sở Thượng thiện...[3] Vây bọc lấy Trai cung là tường gạch hình chữ nhật dài 85m, rộng 65m. Cổng chính của Trai cung nằm ở phía nam, phía bắc cũng trổ một cửa. Đây là nơi nhà vua trai giới thanh tịnh trước khi hành lễ tế Giao.
Nằm ở góc đông bắc của khuôn viên đàn Nam Giao là Thần khố, Thần trù và Tế sinh sở. Thần khố là kho để đồ tế khí, Thần trù là nhà bếp để sửa soạn đồ vật tế lễ[3] còn Tế sinh sở là nơi giết mổ các con vật dùng để tế lễ [5]. Ngoài ra còn có nhà Quan cư là nơi cho các quan lại nghỉ ngơi trước khi theo nhà vua làm lễ, nhà Khoản tiếp là nơi đón tiếp quan khách đến dự lễ. Hiện nay, tất cả các hạng mục công trình này đều không còn tồn tại[1].
Xung quanh khuôn viên đàn Nam Giao, cả ở bên trong lẫn ngoài tường đá[4], nhà Nguyễn còn cho trồng rất nhiều thông, loài cây tượng trưng cho khí phách người "quân tử". Truyền thống này khởi nguồn từ vua Gia Long. Sau khi khởi công xây dựng đàn Nam Giao, nhà vua đã ra lệnh trồng một cụm thông về hướng nam của đàn, phía trong tường, nhằm biểu thị cho bậc khôn ngoan tài trí đã kiên nhẫn nếm mật nằm gai và dũng cảm vào sinh ra tử mà sáng lập vương triều Nguyễn[6]. Quanh đó cũng trồng thông, mỗi cây gắn một tấm biển nhỏ bằng đồng hay bằng đá khắc tên từng vị Khai quốc công thần triều Nguyễn. Sau đó nhiều năm, ngày 20 tháng 3 năm 1834, vua Minh Mạng đến Trai cung chuẩn bị cho buổi tế Giao. Nhà vua đã tự tay trồng 10 cây thông ở hai bên phải trái Trai cung, rồi treo biển đồng khắc bài minh do vua ngự chế lên cây để truyền lâu dài[7], sau đó còn sai các Hoàng tử con vua đều tự tay trồng thông quanh đường vua ngự[8]. Vua Thiệu Trị nối ngôi cũng noi gương ấy, vua thân trồng 11 cây thông ở đàn Nam Giao. Hàng ngũ hoàng thân quốc thích cũng như đại thần được vinh dự trồng mỗi người một cây thông quanh đàn Nam Giao, trên cây có buộc thẻ bài khắc họ tên mình[1]. Đến đời vua Tự Đức, quyền được trồng thông tại khu vực Nam Giao nới rộng tới quan văn tứ phẩm lẫn quan võ tam phẩm. Rừng thông Nam Giao vì vậy cũng mở rộng, lấn dần sang phần đất sau Trai cung, vượt khỏi giới hạn tường đá. Tính đến năm 1885, tức từ đời vua Hàm Nghi trở về trước, mỗi quan lại vào triều diện kiến nhà vua để được thăng chức nâng bậc, ngay sau đó phải lên đàn Nam Giao để tự tay trồng một cây thông với sự chứng kiến của phái đoàn đặc biệt gồm các thành viên đại diện bộ Lễ và bộ Công. Nhà nghiên cứu L. Cadière bình luận "Tấm biển cài trên cây đảm bảo đời sống cho cây. Đố ông quan nào chịu nổi tấm biển tên mình treo trên một cây khô héo vào dịp tế Giao ? Nếu điều ấy xảy ra và đức vua lỡ trông thấy, thì ông quan nào đấy không chỉ chịu tủi nhục mà rất có thể sẽ đón nhận những hậu quả tai hại ! Thật ra, qua việc ngỡ chừng nhỏ nhặt ấy, vua Minh Mạng đã thể hiện tầm chính trị nhìn xa trông rộng. Với sự thận trọng nhằm duy trì và phát triển cây xanh, vấn đề ngài từng quan tâm thể hiện hẳn đem lại những hướng dẫn thực tiễn quý báu cho các cơ quan nông lâm nghiệp ngày nay[1]".
Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyễn sụp đổ, rừng thông đàn Nam Giao bị thu hẹp diện tích, phần thì do bom đạn đốn ngã, phần thì do người dân đẵn gỗ làm chất đốt[1].
Thực đơn
Đàn Nam Giao (triều Nguyễn) Vị trí và kiến trúcLiên quan
Đàn Đàn Kiện Thứ Đàn tỳ bà Đàn tranh Đàng Trong Đàn nguyệt Đàn Nam Giao (triều Nguyễn) Đàn bầu Đàn ông Song Tử Đàn áp người Thượng tại Việt NamTài liệu tham khảo
WikiPedia: Đàn Nam Giao (triều Nguyễn) http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/vi... http://www.truongkieumauhue.org/forum/YaBB.pl?num=... http://www.truongkieumauhue.org/forum/YaBB.pl?num=... http://honvietquochoc.com.vn/Van-hoa/Truyen-thong/... http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsd... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:The_Na...